Anh dỏng tai, hết sức chú ý lắng nghe. Rõ
ràng là tiếng họa mi. Lần này thì không thể nhầm lẫn nữa. Thật nhẹ nhàng anh
rời khỏi giường, len lén đi về phía cửa sau, tai vẫn hết sức lắng nghe tiếng
“đi gió” đặc thù chỉ riêng loài chim hót
nổi tiếng này có được. Nép sau cánh cửa trên gác, anh nhìn về phía phát
ra âm thanh ấy. Và đúng như anh nghi ngờ: trên một cây ăng ten truyền hình còn
sót lại của nhà bên cạnh, “nó” đang đứng phồng cổ hót. Kỳ lạ thay, “nó” không
phải là một con họa mi, nó chỉ là một con chim sẻ!
***
Anh đã có một thời mê chim hót như mê gái. Lúc đầu
thích nghe tiếng chích chòe nên mua vài con “than” về nuôi. Sau đó muốn nghe
giọng “suối reo, thác đổ” của rừng miền Đông anh lại mua thêm vài con “lửa” với
những cái đuôi dài thậm thượt. Rồi khướu, rồi vành khuyên, sơn ca, yến hót… và
cuối cùng dừng lại ở giống chim mà cả anh và những tay chơi kỳ cựu đều chung
nhận xét: vua của các loài chim hót – họa mi!
Nói chung chơi chim, cũng như “chơi” những thứ
khác, nó cũng có đầy đủ hỷ nộ ái ố của thú đam mê. Sáng sớm vọt xe đi mua cào
cào, hửng nắng lên thì mang chim ra tắm, hốt cứt chim, tối trùm áo cho chim
ngủ… thôi thì trăm thứ nhiêu khê khổ ải… chỉ
để nghe được giọng hót mê ly của các… chàng (các loài chim mái phần lớn
không hót, họa mi thì càng không).
Mà quả thật tiếng hót họa mi vô cùng đặc biệt. Với
những giống chim khác nuôi lâu ngày, ví dụ như chích chòe, bạn có thể biết
trước được giai điệu, tiết tấu, âm vực… mà con chim đang và sẽ hót, với họa mi
thì không. Họa mi có thể bất ngờ vút lên một chuỗi âm thanh lảnh lót, sau đó hạ
xuống một nốt trầm như vực thẳm, rồi tiếng “đi gió” trong những trưa vắng như
thầm thì, nỉ non, ru ngủ… Nếu có nhiều lồng chim để cách nhau một khoảng cách
vừa phải, và không nhìn thấy nhau, các con chim sẽ đua nhau trổ tài, và lúc ấy
dù có thể hai, ba hoặc nhiều con cùng hót nhưng đó không phải là những âm thanh
trùng lặp, hổn loạn mà nó giống như một dàn nhạc đang hòa tấu một cách có chủ
đích. Buổi sáng họa mi thường cất tiếng rất sớm, khi những tia sáng đầu ngày
chưa hình thành. Còn với riêng anh, tiếng chim chiều mới là tiếng hót hay thăm
thẳm. Những buổi chiều khi nắng đã dần phai, lúc đó ngồi một mình anh có thể
hoàn toàn chìm đắm vào âm thanh của đàn chim trong lồng. Tiếng hót lúc đó da
diết một cách tổn thương. Ôi, tiếng chim trong lồng! Những âm thanh hoang dã
hay chỉ là ẩn ức, đè nén trong ngục tù vàng son thừa mứa. Vậy sao anh không thả
cho chúng bay xa?
Thực ra không thể thả một con chim đã nuôi lâu đến
có thể cất tiếng hót trong lồng bởi khi ấy chim đã hoàn toàn phụ thuộc vào chủ.
Một con chim cảnh sổ lồng cũng đồng nghĩa với việc sẽ mất mạng vì đói khát hay
làm mồi cho đám mèo hoang rình rập trên những nóc nhà thành phố. Nhưng rồi có
một ngày anh đã ứa nước mắt thả gần hết đàn chim, trong đó có những con họa mi
yêu nhất của mình. Anh nhớ hôm đó là một ngày chuyển mùa. Những cơn mưa cuối
tháng tư bắt đầu xua tan cái ngột ngạt của những ngày nắng nóng phương nam. Anh
chạy xe đi đâu đó qua những con đường ngập sắc đỏ của “cờ chiến thắng” trong
một tâm trạng trống rỗng tuyệt vọng. Rồi anh dự tính ghé nhà một người bạn ở
gần ga Sài Gòn, người bạn đó cũng là một bậc thầy về chim hót để mong giải tỏa
bớt cái tâm trạng u uất của mình. Thế nhưng ngay lúc đó anh nghe cái điện thoại
trong túi mình đổ chuông. Cẩn thận tấp xe vào lề, lấy điện thoại ra và nhìn
thấy tên người gọi là vợ mình. Bật điện thoại anh nghe tiếng cô hốt hoảng: “Anh
về mau, nguy rồi. Người ta đang tới bắt hết chim rồi anh ơi!”. Anh mau chóng
hiểu ra mọi sự và quay đầu xe, phóng vùn vụt về nhà. Cả tuần nay báo chí nói về
dịch cúm gia cầm và việc chính quyền thành phố sẽ tiêu hũy tất cả những vật
nuôi có cánh trong khu vực nội đô. Nhưng anh và các bạn mình không nghĩ họ sẽ
tiêu hũy cả chim cảnh vì không tin với điều kiện nuôi nhốt từng lồng riêng biệt
và chăm sóc kỹ càng, chim cảnh có thể lây H5N1. Khi anh về đến nhà, anh đã thấy
lố nhố trước sân có rất nhiều người đàn ông trong đó có cả công an khu vực. Anh
quăng xe, lao vào trong sân và bàng hoàng nhìn thấy họ đã lấy rất nhiều lồng
chim của mình xuống, đặt trên mặt sân và đang bắt một số chim ra. Bày ra trước
mắt anh là một cảnh tượng kinh hoàng. Một cái bao loại 50kg đựng vôi bột mở
sẵn, trong đó đã có một số con chim của anh bị bẻ cổ, bẻ cánh nằm giãy dụa. Gần
như bất chấp sự đông đúc của những người xung quanh, anh lao tới những lồng
chim vẫn còn xao xác tiếng chim hốt hoảng và giật tung cửa lồng, bẻ gãy các
nang tre cho các cánh chim vút bay vào vùng tự do trước sự thảng thốt của đám
người nhân danh thi hành công vụ….
Sau sự cố kinh hoàng ấy, anh buồn kinh khủng. Trong
cái không khí hốt hoảng đầy huyễn tưởng của cả nước về một đại dịch kinh hoàng
có khả năng xóa sổ hàng triệu người, anh cũng không chắc là hành động của mình
hôm đó đúng hay sai nhưng bạn bè chơi chim của anh rất nhiều người đã phản ứng
tương tự như vậy. Một tháng rồi vài tháng trôi qua, đại dịch đã không xảy ra.
Người ta đã bắt đầu ăn thịt gia cầm trở lại. Những ai kịp đem giấu các lồng
chim cảnh vào một nơi bí mật nào đó giờ không thấy chính quyền đả động gì nữa
lại rụt rè mang ra để nghe chim hót. Chỉ có bầy chim của anh là hoàn toàn tuyệt
tích. Những con chim đã chết thì không nói, những con được tháo củi sổ lồng
cũng tuyệt mù không biết số phận ra sao bởi anh biết Sài Gòn không phải là vùng
đất mà họa mi có thể sinh sống tự nhiên và sợ rằng những con chim kia đã làm
mồi cho mèo hoang hoặc chết đói…
Thế nhưng một buổi sáng, đang ngồi một mình uống cà
phê quán cóc đầu hẻm thì anh thấy vụt qua mắt mình một đôi cánh chao sát xuống
vệ đường. Rồi một con chim lao xuống, đuổi theo con gián đang bò trên nắp cống.
Anh gần như đứng bật dậy nhìn theo. Đó là một con họa mi nhưng cực kỳ xấu xí vì
ốm đói. Khi con chim nhảy lò cò đuổi theo con gián, anh nhìn thấy rõ nó run rẩy
trong cơn tuyệt vọng vì miếng mồi đang dần tuột khỏi tầm mắt. Con gián đã chui
tọt vào ống cống!
Anh quan sát con chim. Nó đã hoàn toàn trụi lông,
giờ đây đầu nó nhô ra một cái sọ tròn như viên bi ngà ngà trắng. Lông bụng cũng
rụng gần hết kéo dài đến đùi làm đôi chân khẳng khiu của nó càng ốm yếu. Có vẻ
như nó đang kiệt sức. Thế nhưng khi anh tiến lại gần, nó cảnh giác vỗ đôi cánh
xác xơ, bay lên bụi sơ ri rậm rạp của nhà bên cạnh. Anh trả tiền cà phê, vào
nhà lấy xe chạy nhanh qua nhà người bạn và mượn một cái lồng bẫy sau đó ghé Ngã
Sáu mua một bịch cào cào. Anh biết con chim đang kiệt sức vì đói và nó sẽ không
bay đi xa. Đúng như dự đoán, khi nhìn thấy những con cào cào mơn mởn treo trên
cành sơ ri, con họa mi ốm đói lao vào và sập bẫy.
Những ngày sau đó, bằng tất cả kinh nghiệm nuôi
chim của mình, anh cố gắng cứu mạng sống của nó. Cào cào non, sâu qui, gạo
trứng… liên tục được bồi dưỡng và con chim cũng dần hồi sức. Khi mùa mưa dần
qua, nó đã có thể mở miệng hót lên vài giai điệu. Anh nghe tiếng hót rất quen,
như thể nó là một trong những con chim anh từng thả ra, nhưng cũng không chắc
chắn là hoàn toàn đúng. Thế nhưng dù có bồi dưỡng toàn những món mồi béo bở cho
chim, ngay cả chịu tốn tiền mua liu điu cho nó ăn hằng ngày, lông đầu và bụng
của nó vẫn không thể mọc ra, thành ra có thể xem nó là một con họa mi cực kỳ
xấu xí. Bù lại con chim càng ngày càng siêng hót và chừng ba tháng sau ngày nó
được cứu sống và tiếp tục cuộc đời trong những nan lồng, nó bỗng dưng trở thành
một con chim đặc biệt, khi mà bất kể lúc nào, trừ khi nó ngủ, hễ anh mở áo lồng
ra là nó cất giọng. Mà cái giọng sau khi phục sinh này mới thật là độc đáo. Chỉ
trừ khi nó nhấm nháp vài miếng mồi hay chút nước, còn tất cả thời gian hầu như
nó dành để hót. Lên bỗng, xuống trầm, du dương, réo rắt. Đôi lúc như tiếng thét
gào, có khi chỉ là những âm thanh thầm thỉ… Cứ vậy, tiếng hót cứ tuôn ra từ cái
mỏ nhỏ kia tưởng chừng như suối chảy, giờ này qua giờ khác, liên tu bất tận làm
kinh ngạc tất cả những người sành sỏi về thú chơi chim. Sợ con chim kiệt sức,
anh chỉ có cách trùm kín áo lồng, đem treo vào nơi ít ánh sáng để nó ngỡ trời
đã tối mà nằm im nhưng chỉ được vài bữa, ngay cả trong bóng tối nó vẫn cứ hót.
Thật ra đôi khi đó không phải là tiếng hót, mà là những tiếng kêu gào lanh
lảnh, như thể muốn thoát ra, tháo củi sổ lồng thêm một lần nữa hay là tiếng gọi
đàn từ trong sâu thẳm của bóng đêm? Khi đó vợ anh cũng vừa sinh đứa con đầu
lòng, nhà thì chật mà tiếng chim lại cứ lảnh lót làm đứa bé cứ giật mình thảng
thốt. Anh đang làm việc tại một chi nhánh của một tờ tạp chí, ông sếp, là một
nhà thơ cũng dễ tính và chỗ thân tình, nên khi anh ngỏ lời muốn mang con chim
tới treo tại chỗ làm, sếp gật đầu, còn nói: “Có tiếng chim còn vui chứ sao”.
Đến nơi ở mới con chim ít hót vài ngày làm anh cũng
mừng nhưng rồi một tuần sau mỗi khi mở áo lồng là nó lại líu lo suốt buổi. Tòa
soạn cũng khá rộng, nhân sự lại ít vì chỉ là một tạp chí chuyên ngành nên cũng
không có vấn đề gì, thậm chí tiếng chim còn làm vui hơn, như ông sếp nói, cho
những tâm hồn đôi khi khô cằn vì sách.
Một hôm có một nhà thơ từ hải ngoại về ghé thăm sếp
anh để bàn chuyện xin giấy phép in cho ông ta một tập thơ phát hành trong nước.
Anh có đọc nhà thơ này và đây là một trong những thi tài mà anh ngưỡng mộ. Ông
đã rất nổi tiếng từ trước năm 1975 và sau khi sống lưu vong tại hải ngoại vẫn
tiếp tục bền bĩ viết và cách tân thơ
mình nên được rất nhiều bạn đọc mến mộ. Dĩ nhiên là anh rất vui khi được trực
tiếp gặp gỡ và tiếp chuyện với một nhà thơ đã biết tiếng từ lâu. Ông sếp, anh
và nhà thơ nói chuyện rất thân tình. Đó là một người đàn ông khá điềm đạm, ăn
nói nhỏ nhẹ. Đang lúc đó thì con họa mi cất tiếng. Nó bắt đầu bằng một tràng
lảnh lót, sau đó chuyển giọng kim rồi trầm giọng thổ. Chỉ một mình nó nhưng như
thể có vài ba con cùng hót. Lồng chim treo ở hành lang khá gần nên làm khách
chú ý. Nhà thơ dừng nói, im lặng lắng tai nghe. Con chim vẫn cứ mê mải hót,
chắc nó không hề biết mình vừa cắt ngang một cuộc đàm luận thanh cao về tương
lai của nền thi ca dân tộc. Nhà thơ bỗng
hỏi: “Tấn (tên sếp anh) nuôi con chim gì mà hót hay vậy?”. Sếp nhìn qua anh:
“Dạ, chim của Bình nuôi, không phải của em”. Nhà thơ nhìn anh: “Hót hay quá, chim
gì vậy Bình?”. “Dạ, là họa mi đó anh”. Anh trả lời nhà thơ, lòng hơi hụt hẩng
chút xíu vì anh nhớ từng đọc một bài thơ của chính ông nói về tiếng chim họa
mi. Hóa ra ông cũng chỉ là tưởng tượng chứ chưa nghe tiếng họa mi bao giờ. Chim
vẫn hót, nhà thơ vẫn say sưa nghe, anh và sếp ngồi yên, không biết nói gì. Rồi
nhà thơ bỗng đề nghị: “Hay là Bình mua giúp anh vài con như vậy, anh lén đem về
Mỹ nuôi nghe nó hót chơi”. Anh suýt phì cười vì sự ngây thơ của nhà thơ. Đem
một con chim hoang dã từ khu vực có cúm gia cầm về Mỹ. Có mà ở tù mục xương.
Sau chuyến thăm của nhà thơ một thời gian, một sáng
thứ hai anh đến tòa soạn làm việc như thường lệ. Hôm đó anh được giao biên tập
một cuốn sách nên mê mải làm đến gần trưa mới giật mình nhớ là không hề nghe
tiếng chim quen thuộc. Khi anh vội vã ra hành lang, nhắc cái lồng xuống thì
thấy con họa mi đã nằm cứng đơ trên tấm lót đáy lồng. Chắc nó chết từ đêm qua.
Hai bên mép ứa máu đầy kiến bu…
***
Đã gần mười năm trôi qua. Giờ anh đã thôi làm việc
tại chỗ cũ và cũng dời nhà ra một quận ngoại thành. Hai đứa con ra đời, lớn lên, học hành… đã làm anh không
còn thời gian cho thú chơi chim xa xỉ. Thỉnh thoảng đi ngang qua những tiệm bán
chim cảnh, anh dùng dằng chạy xe thật chậm, tai vểnh lên còn lòng bồi hồi khi
nghe những âm thanh quen thuộc. Nhưng cũng như tình yêu, có sâu đậm mấy lâu dần
rồi cũng quên, anh không còn có ý muốn khi rảnh rổi lại mua chim về nuôi nữa,
cho đến những buổi trưa vừa qua, khi lại nghe tiếng “đi gió” của loài chim một
thời anh đắm say… Anh tưởng đó là một con họa mi sổng chuồng của ai nhưng cuối
cùng phát hiện ra nó chỉ là một con chim nhại. Lại cũng như tình yêu văn
chương, cái hay của thiên hạ không phải cái hay của mình khi lặp lại. Anh vung
tay, liệng viên gạch vỡ. Con chim bay vụt đi. Anh chẳng còn tâm trạng tò mò
cũng như hứng thú nghe nó hót nữa. Dù tiếng “đi gió” đó giống đến nỗi làm lòng
anh cồn lên bao kỷ niệm nhưng đó chẳng qua chỉ là tiếng nhại giọng của một con
chim sẻ…
(Trong tập KIỀU- NXB Sống- Hoa Kỳ 2014)